Nhấn mạnh EVN cũng không thể chịu được mãi, lãnh đạo Cục Điện lực cho rằng cần có điều chỉnh để cho phép EVN hạch toán được các chi phí giá thành điện năng kịp thời, tính đúng, tính đủ trong giá điện.
Vì sao nhiều người dân phản ánh hóa đơn tiền điện tăng vọt? Thực hư “khoản lỗ” hàng chục nghìn tỷ của EVN là gì? Làm sao để giá điện được minh bạch, tính đúng, tính đủ?… Đó là những vấn đề lớn được bàn thảo tại cuộc tọa đàm “Phát triển bền vững ngành điện – Những vấn đề đặt ra”, do Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổ chức sáng 10/9.
Cần điều chỉnh để cho phép EVN hạch toán các chi phí cấu thành giá điện
Chia sẻ về lộ trình tính đúng, tính đủ các yếu tố cấu thành vào giá điện, Phó Cục trưởng Cục Điện lực (Bộ Công Thương) Trịnh Quốc Vũ nhắc đến thời điểm năm 2022-2023, khi xảy ra xung đột địa chính trị giữa Nga và Ukraine, khiến thị trường năng lượng sơ cấp của thế giới biến động rất mạnh, giá tăng rất bất thường.
Điều này dẫn đến chi phí mua điện của EVN từ các nguồn sử dụng năng lượng hóa thạch (than, khí và dầu), đều tăng rất lớn.
“Theo quy định về giá điện, các chi phí hợp lý, hợp lệ trong cấu thành giá điện đầu vào của EVN sẽ được tính vào giá bán lẻ điện bình quân để điều chỉnh nhưng năm 2022 không có một lần tăng giá nào do nền kinh tế cần phục hồi sau đại dịch; năm 2023 có tăng 2 lần như nhỏ giọt và rất thấp và cuối năm 2023, EVN chịu một khoản lỗ lũy kế khoảng 50.000 tỷ. Đó là chưa tính khoảng 21.800 tỷ đồng chênh lệch tỷ giá điện mà EVN phải trả cho các đơn vị phát điện theo hợp đồng mua bán”, ông Vũ thông tin.
Theo đó, điều này tạo ra thâm hụt giữa doanh thu so với tổng chi phí cấu thành giá điện của EVN.
“Không sớm thì muộn, chúng ta phải cho doanh nghiệp hạch toán tính đúng tính đủ vào giá điện, bởi vì EVN cũng không thể chịu được mãi”, ông Vũ nêu quan điểm. Ông nói thêm cần có điều chỉnh để cho phép EVN hạch toán được các chi phí giá thành điện năng kịp thời, tính đúng, tính đủ trong giá điện.
Chia sẻ bài học kinh nghiệm từ thế giới, ông Hà Đăng Sơn, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Năng lượng và tăng trưởng xanh, cho biết từ châu Á, châu Âu đến Mỹ đều có cách thức điều chỉnh giá điện rất linh hoạt.
Dẫn chứng, ông nhắc đến mô hình thị trường bán lẻ điện của Singapore – một thị trường cạnh tranh rất mạnh. Nhưng vào giai đoạn khủng hoảng, có những công ty bán lẻ của Singapore xin dừng hoạt động, không bán điện và trả lại khách hàng cho công ty điện lực Nhà nước là SP Power. Các công ty tư nhân này từ chối cung cấp dịch vụ vì giá đầu vào quá cao, không thể bán được theo các cam kết trong hợp đồng bán lẻ.
Thái Lan và Malaysia cũng bị ảnh hưởng rất lớn. Tại Malaysia, giá thành sản xuất điện tăng 45%, nhưng do họ cũng là nước sản xuất dầu khí và có những quy định của chính phủ để kìm giữ giá, nên giá bán lẻ chỉ tăng khoảng 10%.
Còn Thái Lan điều chỉnh giá bán lẻ bám sát theo giá nhiên liệu, nên khi giá nhiên liệu thay đổi, họ đưa vào biểu giá nhưng có những kiểm soát nhất định.
“Như vậy, các quốc gia đều phải có tác động của Chính phủ để kìm giữ giá, sau đó sẽ bồi hoàn lại cho ngành điện. Tuy nhiên, kế hoạch này có thể gây ra lỗ rất lớn, và sau đó họ được phép thu hồi lại bằng cách tăng giá điện về sau”, ông Sơn nói.
EVN bị thâm hụt 45.000 tỷ đồng?
Lý giải rõ hơn “khoản lỗ” 45.000 tỷ đồng chưa được tính vào chi phí giá điện, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) Nguyễn Xuân Nam lý giải năm 2022-2023, do phải bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô của đất nước sau dịch Covid-19 nên EVN chưa được điều chỉnh giá điện, dẫn đến giá bán thấp trong khi giá thành đầu vào cao, nên chi phí này tồn đọng lại dù EVN đã tiết kiệm nhiều.
“Năm 2024, do có lãi nên giảm được một phần, còn 44.000 tỷ chưa được bù đắp”, ông Nam giải thích.
Phó Cục trưởng Cục Điện lực Trịnh Quốc Vũ cũng nói thêm “trong hai năm 2022-2023, EVN lỗ”.
Ông khẳng định EVN là Tập đoàn Nhà nước sản xuất kinh doanh điện nhưng chịu sự điều tiết của Nhà nước, chịu sự giám sát của các cơ quan quản lý chứ không phải EVN độc quyền.
“EVN cũng chịu thâm hụt trong mấy năm vừa rồi nên đã thắt lưng buộc bụng. Nhưng có lẽ điều này không bền vững về lâu dài, không bảo đảm chất lượng của lưới điện mà có thể gây quá tải, tăng sự cố”, ông Vũ nói.
Từ góc độ đại biểu Quốc hội, ông Phan Đức Hiếu cho rằng bản chất của con số “45.000 tỷ” là “lỗ chính sách”, tức là mua đầu vào cao, bán đầu ra thấp, hay nói cách khác, “chi phí chưa được phân bổ vào giá điện” do cơ chế kiểm soát giá điện Nhà nước.
Để xử lý bài toán khó này, theo ông Hiếu, phải xét trên cả phương diện lý và tình.
Đầu tiên, về lý, phải tuân thủ pháp luật, giá điện phải theo nguyên tắc thị trường để bảo đảm tính minh bạch, có tăng, có giảm, và quy định một mức lợi nhuận hợp lý.
“Tuy nhiên, vấn đề quan trọng trong câu chuyện nhạy cảm này là cái tình, mức độ nào là phù hợp và hợp lý”, ông Hiếu nói.
Ông đề nghị cần thông tin cụ thể hơn về các chi phí chưa được tính vào giá điện; cân đối mức tăng giá điện hợp lý trong bối cảnh hiện nay.
Ông góp ý có thể tính toán một vài kịch bản cụ thể, tham vấn rộng rãi người dân và cộng đồng doanh nghiệp để xem “mức chịu đựng”, mức phù hợp. Từ đó để đưa ra quyết định một cách minh bạch, tạo được sự đồng thuận của dư luận.
“Quan trọng nhất là tính hợp lý. Nếu chúng ta thông tin minh bạch, có lộ trình dài hạn, đánh giá kỹ tác động kinh tế – xã hội và tham vấn rộng rãi người dân, tôi tin rằng khi có lý, có tình, nhân dân sẽ ủng hộ”, đại biểu Quốc hội Phan Đức Hiếu nêu quan điểm.
Trong những năm chống lại đại dịch COVID-19, khi giá than và khí trên thế giới tăng vọt do bất ổn địa chính trị, Nhà nước đã quyết định giữ nguyên giá điện để hỗ trợ doanh nghiệp và người dân vượt qua giai đoạn đặc biệt khó khăn đó.
Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) khi đó phải gánh thay cho xã hội một khoản chi phí khổng lồ, gần 45 nghìn tỷ đồng, không phải vì yếu kém quản trị, mà vì chủ trương lớn: Ổn định kinh tế – xã hội, bảo đảm an sinh xã hội.
Đó là sự chia sẻ cần thiết trong một thời khắc khó khăn, thách thức chưa từng có.
Giờ đây, việc đưa phần chi phí hợp lý theo quy định đã “gác lại” vào giá bán lẻ điện không phải là bắt người dân gánh lỗ, mà đơn giản là tính đúng, tính đủ cho lượng điện đã tiêu thụ trong thời COVID-19.
Đây chính là sự công bằng để ngành điện có điều kiện tiếp tục đầu tư, bảo đảm an ninh năng lượng cho phát triển đất nước.
Con số mà dư luận vẫn gọi là “lỗ” gần 45 nghìn tỷ đồng thực chất không phải là lỗ theo nghĩa quản trị doanh nghiệp, mà là khoản chi phí hợp lệ, chưa phân bổ vào giá.
Chi phí này đã chính thức được Kiểm toán Nhà nước xác nhận. Nói cách khác, đây là phần “hụt thu tạm thời” mà EVN đã phải gánh trong thời kỳ đại dịch, để giá điện không tăng theo giá than, khí trên thị trường thế giới.
Việc hiện nay xem xét sửa đổi Nghị định 72/2025/NĐ-CP để cho phép đưa khoản chi phí này vào giá bán lẻ điện không phải là “đẩy lỗ cho xã hội”, mà đơn thuần là tính đúng, tính đủ chi phí đã phát sinh trong quá khứ.
Trong kinh tế thị trường, giá bán phải phản ánh chi phí hợp lý. Nếu chi phí thực tế tăng nhưng giá bán bị giữ nguyên quá lâu, doanh nghiệp cung ứng điện sẽ mất cân đối tài chính, không thể huy động vốn để đầu tư mới.
Nguy cơ thiếu điện, mất an ninh năng lượng sẽ là hệ quả trực tiếp mà cả nền kinh tế phải gánh chịu. Bởi vậy, việc điều chỉnh giá điện để bù đắp phần chi phí chưa tính này không phải để “giải cứu EVN”, mà là để bảo vệ sự ổn định của hệ thống điện quốc gia.
Nỗi lo của xã hội, tất nhiên, vẫn rất đáng quan tâm. Người dân sợ hóa đơn điện tăng, doanh nghiệp lo chi phí sản xuất đội lên. Một băn khoăn nữa là liệu trong các khoản chi phí đó có phần nào do quản trị yếu kém hay không.
Chính vì vậy, nguyên tắc then chốt phải được giữ vững: Chỉ những chi phí hợp lý, hợp lệ, đã được kiểm toán độc lập mới được đưa vào giá điện; mọi sai lầm quản trị hoặc chi tiêu không minh bạch phải bị loại trừ.
Kinh nghiệm quốc tế cũng cho thấy điều này là bình thường. Thái Lan áp dụng cơ chế điều chỉnh Ft (Fuel Adjustment Tariff) mỗi 4 tháng, cộng/trừ chi phí nhiên liệu vào giá điện. Hàn Quốc điều chỉnh theo quý, có lúc tăng rất mạnh khi giá dầu, khí nhập khẩu leo thang.
Ở châu Âu, khi khủng hoảng năng lượng bùng phát năm 2022, chính phủ không bắt công ty điện lực “ôm lỗ” mà dùng ngân sách để hỗ trợ trực tiếp các hộ gia đình và doanh nghiệp dễ tổn thương.
Điểm chung là: Giá phải đi cùng chi phí, còn an sinh được xử lý bằng chính sách xã hội, công khai và có mục tiêu.
Với Việt Nam, việc phân bổ khoản chi phí chưa đưa vào giá trong thời gian dịch bệnh là có lý, bởi đây là chi phí có thật, chỉ tạm thời được “hoãn lại” để chia sẻ khó khăn với toàn xã hội.
Giờ đây, tính đúng, tính đủ trở lại là cần thiết để bảo đảm tín hiệu thị trường, thu hút đầu tư, nhất là vào năng lượng tái tạo và hạ tầng lưới điện. Nhưng để chính sách này có tình, cần ba điều kiện:
Thứ nhất, thực hiện theo lộ trình mềm mại, phân bổ dần trong nhiều kỳ để tránh “sốc” giá.
Thứ hai, có chính sách an sinh có mục tiêu, giữ giá bậc thang thấp cho hộ nghèo, hỗ trợ trực tiếp cho nhóm dễ bị tổn thương.
Thứ ba, đảm bảo minh bạch tuyệt đối, công bố rõ ràng cấu phần chi phí, báo cáo kiểm toán, lộ trình phân bổ, và đi kèm cam kết EVN phải cải thiện quản trị, tiết kiệm chi phí.
Điện không thể rẻ mãi nếu chi phí đã tăng lên, nhưng điều quan trọng là phải làm cho xã hội hiểu rằng đây không phải là chia lỗ cho EVN, mà là hoàn trả phần chi phí hợp lý đã được “gác lại” trong giai đoạn đặc biệt của đại dịch.
Khi chính sách được triển khai một cách minh bạch, công bằng và có trách nhiệm, người dân sẽ thấy đây là lựa chọn khó nhưng cần thiết, để giúp ngành điện hoạt động ổn định và bảo đảm an ninh năng lượng lâu dài.
Chúng ta đã cùng nhau đi qua những ngày tháng gian khó nhất của đại dịch bằng sự chia sẻ. Giá điện được giữ nguyên để giảm bớt gánh nặng cho hàng triệu hộ gia đình và doanh nghiệp, và khi đó, EVN đã gánh thay xã hội khoản chi phí đáng lẽ phải được cộng vào giá thành.
Hôm nay, khi đất nước đã bước sang giai đoạn bình thường, nguyên tắc công bằng phải được khẳng định: Chi phí hợp lý đã phát sinh cần được tính đủ để hệ thống điện có thể tiếp tục vận hành lành mạnh.
Sự chia sẻ trong lúc nguy nan là điều đáng quý, còn sự công bằng trong lúc ổn định là điều cần thiết.
Chỉ khi hệ thống điện khỏe mạnh, Việt Nam mới có thể bảo đảm an ninh năng lượng, thu hút đầu tư và vững vàng tiến bước phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hướng đến phồn vinh và hạnh phúc cho mọi người.