24 năm lăn lộn với nghề thợ khâm liệm, ngày nào cũng tiếp xúc với người mất, tắm rửa, khâm áo chỉnh tề, tôi nghĩ mình đã chai lì với sinh – tử. Bao nhiêu tiền kiếm được, tôi đều không giữ lại, mà dồn hết cho nhà vợ: lo tiền học cho em vợ, dựng lại căn nhà tổ cho họ, sắm sửa đủ thứ. Vậy mà trong mắt nhà vợ, tôi chỉ là “kẻ ngoài”, chẳng bao giờ được coi trọng.
Chiều hôm ấy, sau ca làm dài mệt mỏi, tôi lê bước về nhà. Vừa đến cổng, tôi chết sững: cả ngõ ngập kín vòng hoa tang trắng, tiếng kèn trống não nề vang lên. Tim tôi đập loạn, chân run rẩy bước vào.
Và rồi tôi ngã quỵ ngay tại chỗ khi nhìn thấy bức di ảnh đặt trang trọng giữa gian chính… chính là ảnh của tôi.
Họ hàng, xóm làng, cả nhà vợ mặc đồ tang trắng, khóc than thảm thiết, nhưng tuyệt nhiên… không một ai nhận ra tôi đang đứng ngay đó.
Trong cơn hoảng loạn, tôi cố hét lên:
– “Tôi còn sống đây mà! Tôi chưa chết!”
Nhưng kỳ lạ thay, tiếng tôi vang lên mà chẳng ai ngoái lại. Người ta còn xì xào:
– “Khổ thân, ông ấy cả đời vất vả cho nhà vợ, giờ mất rồi mới được an ủi bằng đám tang to thế này…”
Tôi gào khóc trong vô vọng, và đúng giây phút ấy, từ gian bếp, vợ tôi bước ra, tay cầm phong bì dày cộp, cười rạng rỡ thì thầm với em trai:
– “Anh ta sống hay chết, có khác gì đâu. Chỉ khi coi như đã chết, tôi mới thật sự được tự do…”